Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đến giai đoạn hiện nay đã trở thành một trong các tập đoàn mạnh, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có năng lực cạnh tranh ở trong nước và quốc tế, đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển bằng việc sử dụng tối ưu các nguồn lực sẵn có.
Một mô hình nhiều ưu việt
TS Nguyễn Xuân Thắng |
Petrovietnam tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cốt lõi là tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, chế biến và kinh doanh các sản phẩm dầu khí, công nghiệp khí, công nghiệp điện và các dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất lượng cao. Tập đoàn đề cao việc phát triển bền vững với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh quốc phòng, góp phần tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
Với một tập thể lãnh đạo và người lao động đoàn kết, trí tuệ, chung sức chung lòng, dám làm và dám chịu trách nhiệm, sau 5 năm (2006-2010) thực hiện Mô hình thí điểm Tập đoàn, Kết luận 41 của Bộ Chính trị, Luật Doanh nghiệp, Luật Dầu khí do Quốc hội thông qua, Điều lệ tổ chức và hoạt động cũng như Quy chế Tài chính của Tập đoàn được Thủ tướng ban hành, Petrovietnam đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về quản lý và điều hành trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay Tập đoàn đã bổ sung được nhiều cán bộ trẻ có năng lực; đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật công nghệ và quản lý, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao và đặc thù, kể cả cán bộ công tác Đảng và các đoàn thể không ngừng lớn mạnh cả về chất và lượng.
Hoạt động dầu khí giai đoạn 2011-2013 vừa qua vẫn tiếp tục đảm bảo là mục tiêu thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt đã lan rộng trong tất cả các khâu từ thượng nguồn đến trung nguồn và hạ nguồn cũng như các khâu thương mại và dịch vụ dầu khí. Các hoạt động dầu khí tích cực như vậy đã đảm bảo cho chiến lược an ninh năng lượng, an ninh lương thực của nước ta.
Mang lại hiệu quả kinh tế cao
Các chỉ tiêu của Petrovietnam trong giai đoạn 2011-2013 đã được lãnh đạo và người lao động của Tập đoàn triển khai thực hiện vượt mức ở tất cả các khâu chủ yếu được Chính phủ giao.
Lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí được triển khai tích cực ở trong và ngoài nước, công tác khảo sát, điều tra cơ bản, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những khâu còn mở, vùng nước sâu và xa bờ thu được những kết quả quan trọng và đáng khích lệ. Gia tăng trữ lượng đạt hơn 70% kế hoạch 5 năm. Có nhiều phát hiện dầu khí mới cả trong và ngoài nước và nhiều hợp đồng dầu khí được ký kết, các mỏ dầu khí được khai thác an toàn và hiệu quả. Kiểm soát tốt tiến độ phát triển mỏ, tổng sản lượng khai thác dầu khí 3 năm qua đạt vượt trên 60% kế hoạch của cả giai đoạn 2011-2015.
Về công nghiệp khí, các đường ống dẫn khí được vận hành an toàn và hiệu quả, đảm bảo tốt công tác duy tu bảo dưỡng, sửa chữa hệ thống cấp khí theo đúng lộ trình kế hoạch và tiến độ mang lại hiệu quả cao về kinh tế và khoa học công nghệ. Đã cung cấp trên 27 tỉ m3 khí cho các hộ tiêu thụ trong nước. Hằng năm đã đảm bảo cung cấp khí để sản xuất điện tại tổ hợp điện Phú Mỹ, Nhơn Trạch và Cà Mau; cung cấp khí để sản xuất gần 1,6 triệu tấn phân đạm mỗi năm, đáp ứng trên 70% nhu cầu phân đạm của nông nghiệp nước nhà.
Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến dầu khí đã hoàn thành đầu tư và đưa vào vận hành an toàn và hiệu quả các nhà máy như: Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Polypropylen Dung Quất, Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Cà Mau và Nhà máy Chế biến Condensate. Các nhà máy đã vận hành thương mại đều hoạt động hết công suất danh định và tối ưu. Các sản phẩm xăng dầu từ các nhà máy của Tập đoàn hằng năm đáp ứng khoảng trên 30% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu của các hộ công nghiệp và thị trường trong nước.
Về lĩnh vực công nghiệp điện, Petrovietnam đã hoàn thành và đưa vào vận hành thương mại các dự án điện như: Nhơn Trạch 2 với công suất 750MW, Nhà máy Thủy điện Hủa Na công suất 180MW và Nhà máy Phong điện Phú Quý công suất 6MW. Tính đến cuối năm 2013, tổng công suất các nhà máy điện của Tập đoàn đạt 2.889MW. Tổng sản lượng điện của Tập đoàn 3 năm 2011-2013 đạt 44,61 tỉ kWh, bằng 47% kế hoạch 5 năm 2011-2015, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch mà Chính phủ giao, đặc biệt là việc đảm bảo cung ứng điện trong các mùa khô hàng năm.
Dịch vụ dầu khí đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động dầu khí, thu hút tối đa các thành phần kinh tế tham gia. Trong lĩnh vực đảm bảo cung cấp và phát triển dịch vụ dầu khí tại Petrovietnam, hầu hết các đơn vị dịch vụ dầu khí đều đã thực hiện cổ phần hóa và hoạt động có hiệu quả. Trong cơ cấu tổng doanh thu của Tập đoàn thì dịch vụ dầu khí chiếm khoảng 30%. Các đơn vị đã tập trung triển khai theo phương án tái cấu trúc Tập đoàn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các đơn vị cung cấp dịch vụ dầu khí của Petrovietnam bao gồm VSP, PTSC, PVD, PVTrans, PVOil, Pet, DMC, PVI, EIC, PVcomBank…
Duy trì nhịp độ tăng trưởng ổn định
Hiện nay, Petrovietnam có cơ sở vật chất, nguồn nhân lực mạnh; đang vận hành 20 căn cứ kho cảng, 15 xưởng cơ khí, 8 giàn khoan, 13 kho nổi/chứa xuất dầu thô, 22 tàu vận chuyển dầu thô và sản phẩm dầu, 52 tàu dịch vụ các loại, hệ thống 3 đường ống dịch vụ vận chuyển khí, 150 xe cầu và cần cẩu chuyên dụng, 43 kho xăng dầu đầu mối và trung chuyển với tổng sức chứa 1,1 triệu m3 cùng hơn 3.000 cửa hàng trực thuộc và cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên toàn quốc; 10 kho LPG tổng sức chứa trên 80 ngàn tấn, 12 kho đạm tổng sức chứa trên 215 ngàn tấn. Nhiều đơn vị đã vươn ra thị trường quốc tế như PTSC, PVTrans, PVOil, PVD, PVI…
Đến nay, Petrovietnam luôn duy trì mức tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước; quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu tăng vượt trội, tổng tài sản đạt trên 35 tỉ USD. Vốn điều lệ Thủ tướng Chính phủ giao vào ngày 1/7/2010 là gần 178.000 tỉ đồng, tương đương gần 8 tỉ USD, đến nay đã tăng gấp 2 lần, thể hiện Petrovietnam đã bảo toàn và phát triển được vốn một cách mạnh mẽ.
Trước đây thu nhập và nộp Ngân sách Nhà nước của Petrovietnam hầu hết và chủ yếu từ xuất khẩu dầu thô, nay đã thay đổi cơ cấu chủ yếu theo mô hình 40-30-30, có nghĩa là từ dầu thô khoảng 40%, từ các sản phẩm công nghiệp sau chế biến dầu khí như lọc dầu, sản xuất điện, đạm… chiếm 30%, phần còn lại 30% là các dịch vụ dầu khí chuyên ngành kỹ thuật cao.
Các chỉ số kinh tế – tài chính của Tập đoàn chặng đường 3 năm qua so với kế hoạch 5 năm 2011-2015 được phản ánh như sau: Giá trị sản xuất công nghiệp 3 năm qua đạt trên 2.169 ngàn tỉ đồng, tăng trưởng bình quân trên 4%/năm; tổng doanh thu của toàn Tập đoàn đạt trên 2.169 ngàn tỉ đồng, bằng 64% của kế hoạch 5 năm, tăng bình quân trên 16%/năm; các khoản nộp ngân sách Nhà nước 3 năm qua đạt khoảng 518.000 tỉ đồng, bằng gần 72% kế hoạch 5 năm, tăng bình quân khoảng 11%/năm.
Tổng thể ta thấy giai đoạn 2011-2013 trong điều kiện nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, kinh tế đất nước còn khó khăn và đang được phục hồi thì Petrovietnam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng, phát triển sản xuất kinh doanh trên 5 lĩnh vực, trong đó công tác tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí vẫn được triển khai mạnh mẽ trong và ngoài nước. Đặc biệt trong những năm 2012-2013 Ngân sách Nhà nước có khó khăn thì Tập đoàn đã đóng góp vượt mức chỉ tiêu nộp ngân sách. Năm 2011 nộp vượt số tiền hơn 58 ngàn tỉ đồng, năm 2012 nộp vượt gần 52,3 ngàn tỉ đồng và năm 2013 nộp vượt 45,7 ngàn tỉ đồng. Quy mô tài sản, vốn chủ sở hữu của tập đoàn tăng vượt trội, tổng tài sản hợp nhất của tập đoàn tăng bình quân hơn 16% mỗi năm; vốn chủ sở hữu hợp nhất tăng 15,5% mỗi năm.
Càng gần thắng lợi càng nhiều gian nan
Trong 2 năm 2014-2015 còn lại của kế hoạch 5 năm, Petrovietnam tiếp tục đảm bảo sản lượng khai thác dầu khí theo chương trình công tác và ngân sách của các dự án do Petrovietnam trực tiếp đầu tư hoặc của Tổng Công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí, Liên doanh Dầu khí Việt – Nga và của các nhà thầu dầu khí; hằng năm phấn đấu gia tăng trữ lượng phát hiện dầu khí đạt 35-45 triệu tấn dầu quy đổi, sản lượng khai thác dầu khí đạt 25-27 triệu tấn quy dầu; sản lượng thu gom khí vào bờ đạt 9-14 tỉ m3 khí/năm; tiếp tục thúc đẩy đầu tư nâng cấp Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn, Hóa dầu Long Sơn… Giữ sản xuất ổn định các nhà máy đạm, ethanol sinh học, xơ sợi, các dự án hóa dầu từ khí khác. Huy động hiệu quả và tối ưu công suất các nhà máy điện, phấn đấu đến năm 2015 đạt 20 tỉ kWh điện. Tiếp tục thu hút tối đa các hoạt động dịch vụ dầu khí nhằm tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ trong hoạt động dầu khí.
Trong các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của Tập đoàn ước thực hiện giai đoạn kế hoạch 5 năm cũng có một số công trình phải dãn, dừng đầu tư; một số dự án thay vì Petrovietnam phải đầu tư toàn bộ thì kế hoạch điều chỉnh cho giai đoạn này Petrovietnam chỉ đầu tư một phần, còn lại các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư và như vậy sẽ giảm áo lực về vốn cho Tập đoàn, ví dụ như Dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn, Petrovietnam chỉ phải bỏ vốn đầu tư 25%.
Mặc dù Tập đoàn có trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh một số chỉ tiêu, nhưng chỉ tiêu tăng trưởng doanh thu và nộp ngân sách Nhà nước vẫn sẽ tăng; dự đoán cả giai đoạn 2011-2015 doanh thu ước đạt 3.533 triệu tỉ đồng/3.380 triệu tỉ đồng; nộp ngân sách là 797 ngàn tỉ thay vì kế hoạch là 725 ngàn tỉ đồng trước đây Thủ tướng đã phê duyệt. Với khối lượng công việc như vậy, theo nhu cầu vốn trước đây phải đầu tư khoảng 50 tỉ USD thì nay được điều chỉnh lại chỉ còn 50% nhu cầu vốn trên, tức là khoảng 25 tỉ USD; trong đó đề xuất theo các tỷ lệ sau: Tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí chiếm 58%; công nghiệp khí 5%; công nghiệp điện 17%; chế biến dầu khí 10% và dịch vụ kỹ thuật là 10%.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ trên, Petrovietnam dự báo sẽ phải đối diện những vấn đề như: Nền kinh tế thế giới còn có những khó khăn sau giai đoạn khủng hoảng những năm qua sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh cả ở trong và nước. Công tác tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí ngày càng khó khăn do giá thành cao, phải triển khai các lô xa bờ, vùng nước sâu. Hoạt động dầu khí đòi hỏi nguồn vốn lớn, đặc biệt là nguồn ngoại tệ cho các dự án ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, hiện nay Petrovietnam phải đầu tư các các dự án lọc hóa dầu, các nhà máy điện trong khi Tập đoàn phải chia sẻ khó khăn của ngân sách. Bên cạnh đó, sạnh tranh ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia; việc một số tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động sút giảm cũng ảnh hưởng đến Petrovietnam. Một số dự án như nhiên liệu sinh học, xơ sợi kinh doanh chưa hiệu quả do thị trường giảm sút và chưa được thị trường tin dùng. Các dự án nhiệt điện chạy bằng than không phải thế mạnh của Tập đoàn. Hệ thống chính sách, cơ chế đang trong quá trình hoàn thiện, mô hình tập đoàn đang được thực hiện thí điểm.
Để đạt được mục tiêu và vượt qua những khó khăn thách thức, Petrovietnam đã đề ra các giải pháp về quản trị doanh nghiệp, về tài chính và thu xếp vốn, tiếp tục xúc tiến đầu tư, làm tốt công tác thông tin dự báo thị trường; phát triển nguồn nhân lực có chất lượng theo yêu cầu từng lĩnh vực; giải pháp quan trọng là khoa học và công nghệ (R&D), đảm bảo an toàn môi trường sinh thái, đảm bảo an ninh và an toàn cho các hoạt động dầu khí.
Các bước cụ thể cần triển khai là tái cấu trúc Tập đoàn và các đơn vị thành viên bằng việc tổng kết việc thực hiện mô hình Tập đoàn trong thời gian qua, đúc rút các kinh nghiệm trong các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả, không hiệu quả, để đánh giá và đưa ra các tiêu chí đầu tư trong thời gian tới. Đồng thời xem xét lại toàn bộ danh mục đầu tư, cơ cấu lại các khoản đầu tư hợp lý để phân bổ nguồn lực, có tính đến sự phát triển trong tương lai, chiến lược dài hạn bằng các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh không những trên thị trường trong nước và quốc tế. Học hỏi kinh nghiệm của các nước, các chuyên gia về quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính, và quản trị rủi ro.
Tin tưởng rằng, với chặng đường còn lại, được sự chỉ đạo của các cấp ở trung ương và phối hợp của các địa phương, cũng như của các đối tác và nhà đầu tư, chắc chắn Petrovietnam sẽ hoàn thành các chỉ tiêu được giao.
TS Nguyễn Xuân Thắng