Ngay sau giải phóng miền Bắc, thực hiện công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nghĩ đến việc xây dựng ngành công nghiệp Dầu khí hùng mạnh.
Lúc này, chưa có những khảo sát một cách toàn diện và chuyên sâu về dầu mỏ ở Việt Nam. không ai nghĩ rằng Việt Nam có dầu khí, kể cả những nhà địa chất Pháp nhiều kinh nghiệm đã tiến hành khảo sát, điều tra địa chất, tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam. Song, với tầm nhìn xa trông rộng và bằng linh cảm của một thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình dung đất nước muốn hùng mạnh, nhất định phải có một ngành công nghiệp dầu khí hiện đại.
Trong chuyến thăm Đông Âu năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm giàn khoan dầu của Rumani và nhà máy lọc dầu ở Bulgari. Đặc biệt, trong chuyến thăm Liên Xô, ngày 23/7/1959, khi tới thăm khu công nghiệp dầu khí ở Bacu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với các nhà lãnh đạo nước Cộng hòa Azerbaijan rằng: “Tôi nghĩ Việt Nam chúng tôi có biển, nhất định sẽ có dầu, nhưng đang chiến tranh, chưa làm được. Tôi hy vọng và tin tưởng rằng sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, các đồng chí sẽ giúp chúng tôi tìm ra dầu, khai thác và chế biến dầu, xây dựng được khu công nghiệp dầu khí như Bacu”. Lời của Bác cũng chính là những dòng chữ vàng đầu tiên của lịch sử ngành Dầu khí nước nhà, là niềm tin, ước vọng của đất nước, là mục tiêu hành động, là “kim chỉ nam” trong suốt quá trình xây dựng và phát triển của ngành Dầu khí hơn 60 năm qua.
Từ cuối những năm 1950, để chuẩn bị cán bộ cho phát triển ngành Dầu khí, Nhà nước ta đã cử nhiều học sinh đi du học về dầu khí tại Liên Xô, Pháp, Rumani, Hungary, Albani, Tiệp Khắc, Ba Lan, Trung Quốc…, đồng thời, mời nhiều chuyên gia Liên Xô sang giúp Việt Nam khảo sát, nghiên cứu, đánh giá triển vọng dầu khí ở miền Bắc. Năm 1960, 1961, các chuyên gia hai nước đã hoàn thành báo cáo tổng hợp đầu tiên ở nước ta “Địa chất và triển vọng dầu khí ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Xuất phát từ tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước về ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam, cùng với kết luận ban đầu tại báo cáo địa chất dầu khí nói trên, ngày 9/10/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 159 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chất, trong đó xác định rõ có tổ chức Đoàn thăm dò Dầu lửa.
Ngày 27/11/1961, Tổng cục Địa chất có Quyết định số 271-ĐC thành lập Đoàn Thăm dò Dầu lửa số 36 (Liên đoàn địa chất 36). Đây cũng chính là tổ chức Việt Nam đầu tiên thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở Việt Nam, tiền thân của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) ngày nay.
Sự ra đời của Đoàn Dầu lửa 36 khi đất nước đang dốc toàn sức cho cuộc kháng chiến gian khổ và phải triển khai tìm kiếm dầu khí dưới bom đạn của đế quốc Mỹ đã thể hiện sự quyết tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ thực hiện ý nguyện của Bác Hồ.
Dù với bao khó khăn, thiếu thốn do chiến tranh ác liệt kéo dài, công tác tìm kiếm và khoan thăm dò dầu khí vẫn liên tục được duy trì ở Đồng bằng Bắc Bộ. Phải sau 15 năm, chúng ta mới phát hiện được dòng khí thiên nhiên và condensate có giá trị thương mại tại giếng khoan 61 Tiền Hải – Thái Bình vào ngày 18/3/1975 và những mét khối khí đầu tiên từ mỏ khí Tiền Hải được khai thác dẫn đến trạm turbine khí phát điện vào ngày 19/4/1981.
Từ tầm nhìn chiến lược của Bác, sự quyết tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III cùng với những kết quả hoạt động và kinh nghiệm của quá trình khảo sát, nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở miền Bắc đã tạo cơ sở ban đầu vững chắc cho sự phát triển của ngành Dầu khí sau này.
NLĐ Dầu khí trên giàn khoan
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, chúng ta đã bắt tay ngay vào việc khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh nhằm xây dựng cuộc sống mới. Lúc này là thời kỳ đất nước ta phải đương đầu với những khó khăn, thiếu thốn trăm bề. Với mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững, Đảng và Chính phủ ta đã đề ra phương hướng, chỉ đạo các bước đi cụ thể để phát triển lĩnh vực dầu khí Việt Nam.
Tháng 7/1975, đoàn công tác của Việt Nam đã sang thăm Mexico và Pháp để đàm phán hợp tác về dầu khí. Ngày 6/8/1975, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về xúc tiến việc tìm kiếm và khai thác dầu mỏ trên lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, đồng thời sẵn sàng thảo luận với các chính phủ và các công ty nước ngoài muốn tham gia. Nhiều hợp đồng dầu khí được ký kết để tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam với kỳ vọng nguồn dầu khai thác sẽ là động lực vực nền kinh tế đất nước đi lên sau chiến tranh. Nhưng do cấm vận và đặc biệt cuộc chiến tranh biên giới đã làm gián đoạn tiến trình đó, các công ty tư bản đã ra đi, chấm dứt các hợp đồng thăm dò dầu khí năm 1979.
Kỳ vọng về nguồn dầu khai thác từ thềm lục địa Việt Nam tưởng chừng sụp đổ, nhưng với quyết tâm kiên trì xây dựng ngành Dầu khí làm động lực phát triển nền kinh tế, Bộ Chính trị đã quyết định ký Hiệp định Hợp tác chiến lược với Liên Xô, trong đó có việc thành lập liên doanh hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí trên một số lô ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Bước đi quan trọng này đã tạo bước ngoặt lịch sử, làm tiền đề để xây dựng nền công nghiệp Dầu khí ngày nay.
Năm 1981, Hiệp định thành lập Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt – Xô (nay là Liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro) tại Vũng Tàu được ký kết theo Hiệp định Hợp tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên Xô. Ngày 26/6/1986, Vietsovpetro khai thác tấn dầu đầu tiên từ mỏ Bạch Hổ, ghi tên Việt Nam vào danh sách các nước khai thác và xuất khẩu dầu thô trên thế giới. Và rồi, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới (1986) đến nay, Việt Nam đã mở rộng hợp tác quốc tế thu hút mạnh đầu tư vào lĩnh vực dầu khí, nâng tầm và mở rộng quy mô, trình độ phát triển; nhiều mỏ dầu, khí đã được phát hiện và đưa vào khai thác, thu được những thành tựu rất lớn cả về góc độ khoa học và kinh tế.
Sau 60 năm hình thành và phát triển, ngành Dầu khí Việt Nam đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện hiệu quả vai trò là đầu tàu kinh tế của đất nước. Đó là thành quả của tầm nhìn vĩ đại, thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam xuyên suốt chiều dài lịch sử phát triển của Ngành Dầu khí, mà trọng tâm là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, là trí tuệ và quyết tâm, sự chỉ đạo sáng suốt kịp thời của Bộ Chính trị, Chính phủ, là kết quả của lao động sáng tạo, kiên trì, lòng kính yêu đối với Bác Hồ của lớp lớp thế hệ người dầu khí. Để từ đó, ngành Dầu khí đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Ban TGNC, CĐ DKVN