Việc triển khai các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí (TDKT) trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thời gian qua đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – chính trị – xã hội, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và khẳng định chủ quyền biển đảo quốc gia.
Tính đến hết năm 2019, tổng sản lượng khai thác tại Việt Nam đạt trên 410 triệu tấn dầu và condensate (tương đương gần 492 triệu m3). Tổng sản lượng khí đã khai thác đến hết năm 2019 của PVN ước đạt 205 tỷ m3. Nhìn chung sản lượng khai thác dầu khí ở trong nước của PVN từ năm 2015 đến nay có xu hướng suy giảm nhanh. Từ năm 2015-2019, mỗi năm sản lượng khai thác dầu và condensate giảm khoảng 0,95 – 1,73 triệu tấn.
Giai đoạn sắp tới, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đối mặt với hàng loạt các khó khăn thách thức chưa từng có. Đó là sự cạnh tranh trên thế giới ngày càng khốc liệt trong việc tìm kiếm dự án mới ở nước ngoài; tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp tác động rất lớn đến hoạt động TKTD và sự chủ động trong việc triển khai thực địa. Bên cạnh đó, giá dầu sụt giảm mạnh cùng với dịch bệnh Covid-19 diễn biến khó lường đã ảnh hưởng sâu rộng toàn cầu và tác động đến mọi mặt hoạt động của PVN.
|
Giai đoạn 2020-2025 được dự báo có nhiều thách thức, khó khăn cho công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí của PVN |
Thực tế gia tăng trữ lượng các năm 2015-2019 đạt thấp. Hệ số gia tăng trữ lượng bù trừ vào sản lượng khai thác đã suy giảm tới mức đáng lo ngại. Khu vực dầu khí truyền thống nước nông ngày càng khó khăn, đòi hỏi công nghệ cao và chi phí ngày càng lớn trong khi khu vực nước sâu xa bờ tiềm ẩn nhiều rủi ro với kinh phí lớn. Ngoài ra, việc triển khai các dự án đầu tư TKTD cũng như khai thác dầu khí tại các dự án nước ngoài gặp nhiều khó khăn, thách thức. Các mỏ dầu chủ đạo trong nước đang vào giai đoạn suy giảm sản lượng nhanh, mức độ ngập nước cao. Các mỏ khí hiện đang khai thác đã bắt đầu suy giảm sản lượng. Công tác phát triển mỏ hiện tại rất khó khăn do giá dầu thấp, số lượng mỏ/vỉa mới đưa vào khai thác ít và trữ lượng thu hồi mỏ nhỏ nên ảnh hưởng mạnh tới việc duy trì sản lượng khai thác hằng năm cũng như hiệu quả kinh tế không cao do giá dầu thấp mà chi phí khai thác cao.
Bên cạnh những khó khăn về mặt kỹ thuật, nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho công tác TKTD hiện tại đang ở mức thấp do các cơ chế, chính sách, điều kiện hoạt động không hấp dẫn nhà đầu tư. Những năm gần đây, các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động TDKT dầu khí có thay đổi nhưng nhìn chung chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, các Bộ luật Dầu khí, Luật Quản lý và Sử dụng vốn Nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu còn chồng chéo, vướng mắc…
Đứng trước các khó khăn thách thức đó, PVN vẫn đặt ra các chỉ tiêu cụ thể cho giai đoạn 2020-2025 như: phấn đấu đạt hệ số bù trữ lượng mức từ 0,75 ÷ 1 để tiếp tục duy trì và từng bước phát triển công tác TDKT dầu khí; mục tiêu sản lượng khai thác giai đoạn tới đạt khoảng 9 – 12 triệu tấn dầu/năm và 10 – 18 tỷ m3 khí/năm.
Để hoàn thành các chỉ tiêu TDKT dầu khí giai đoạn 2020-2025 nêu trên, các giải pháp về kỹ thuật – công nghệ, tài chính – đầu tư, cơ chế – chính sách, tổ chức và đào tạo đã và đang được triển khai một cách hợp lý, đồng bộ và hiệu quả. Đối với công tác TKTD, sẽ tích cực triển khai các hoạt động TKTD để không ngừng gia tăng trữ lượng, các hoạt động tập trung ưu tiên khu vực truyền thống tiềm năng cao.
Đặc biệt, tích cực triển khai công tác tận thăm dò, thăm dò mở rộng kết hợp khai thác ở các khu vực mỏ và lân cận mỏ đang khai thác; Tăng cường thu thập thông tin, triển khai công tác nghiên cứu về địa chất, địa vật lý, đánh giá tiềm năng dầu khí các bể trầm tích, phân vùng triển vọng nhằm giảm thiểu rủi ro cho TKTD đồng thời làm cơ sở ký kết hợp đồng dầu khí mới.
Ở nước ngoài, tiếp tục tìm kiếm dự án TKTD có tiềm năng tốt tại các địa bàn trọng điểm, kết hợp với việc mua tài sản/trữ lượng dầu khí. Đồng thời, đa dạng hóa phương thức tiếp cận cơ hội/tài sản dầu khí; tích cực các hoạt động trao đổi, bán/mua các hợp đồng dầu khí có sẵn tiết kiệm thời gian/tiến độ triển khai, đảm bảo hiệu quả kinh tế và giảm thiểu rủi ro. Áp dụng các công nghệ tiên tiến (như địa chấn phân giải cao – Broadband, 4C…) nhằm xác định đối tượng TKTD chính xác hơn, nâng cao xác suất thành công. Áp dụng công nghệ mới nhằm giảm chi phí phát triển các mỏ mới, tận dụng cơ sở hạ tầng hiện có để tiết kiệm chi phí, sớm đưa các mỏ nhỏ cận biện, các phát hiện mới vào khai thác…
Tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực triển khai áp dụng các giải pháp gia tăng hệ số thu hồi dầu, cũng như triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển khí đồng bộ từ thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn nhằm tối ưu hóa hiệu quả đầu tư ở các khu vực trọng điểm…
Ngoài các giải pháp kỹ thuật trên, PVN cũng cần nghiên cứu kiến nghị tiếp tục duy trì Quỹ rủi ro cho hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí vẫn được tiếp tục với cơ cấu hợp lý, thực hiện đánh giá và đầu tư có chọn lọc cũng như được kiểm soát hoạt động đầu tư. Ngoài ra, Tập đoàn cũng tích cực đề xuất cơ chế khấu trừ chi phí đối với hoạt động TKTD không thành công;
Trong giai đoạn 2020-2025, Tập đoàn nhận thấy đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí vẫn rất quan trọng (ước chiếm khoảng 70% nhu cầu). Do vậy, để đảm bảo huy động được nguồn vốn đầy đủ, Chính phủ cần thay đổi các chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp. Hoạt động TDKT tuy có những đặc thù riêng nhưng trước tác động của giá dầu giảm và dịch bệnh Covid-19, Tập đoàn cũng phải triển khai các biện pháp tiết giảm quyết liệt, đồng thời đẩy nhanh thực hiện quá trình tái cấu trúc khối E&P.
Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng cán bộ thông qua đào tạo bổ túc và nâng cao trình độ trong lĩnh vực quản trị, quản lý kỹ thuật và chuyên môn trong lĩnh vực E&P cũng được quan tâm và chú ý. Tập đoàn cũng đẩy mạnh việc chuyển đổi số trong thời gian tới, đặc biệt đang tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu E&P để trợ giúp cho việc điều hành và quản lý các dự án một cách hiệu quả về thời gian và chi phí. Việc áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác TD-KT và nâng cao độ tin cậy trong quá trình tính toán trữ lượng và dự báo sản lượng khai thác cũng được đẩy mạnh.
Tin tưởng với những kế hoạch cụ thể, các giải pháp được triển khai đồng bộ, hiệu quả, công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí của PVN trong giai đoạn 2020-2025 sẽ tiếp tục thu được những kết quả khả quan, đóng góp quan trọng cho việc phát triển bền vững Tập đoàn cũng như ổn định nguồn thu ngân sách cho đất nước.
Hiền Anh