Đến thời điểm này, hành trình xây dựng và phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam đã tròn 54 năm. Ngành công nghiệp lớn mạnh đang giữ vai trò đầu tàu kinh tế của đất nước từng có một khởi đầu gian khó nhưng đầy khát vọng, mỗi bước đi đều để lại dấu ấn lịch sử đáng tự hào.
Khởi nguồn Dầu lửa
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh lập tức quan tâm tổ chức lại ngành địa chất và mỏ. Tháng 10-1945, Bác ký Sắc lệnh sáp nhập Sở Tổng thanh tra Khoáng chất và Kỹ nghệ thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương vào Bộ Quốc dân Kinh tế.
Một ngày đầu tháng 7-1955, Giáo sư Trần Đại Nghĩa lúc bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, đã khai giảng lớp chuyên viên địa chất ở chùa Láng. Lớp có 104 học viên, trong đó những người sau này trở thành các chuyên gia nòng cốt của ngành Dầu khí là Trương Thiên, Nguyễn Giao, Đặng Của, Phan Minh Bích…
Giàn khoan PV DRILLING 11 tại sa mạc Sahara |
Ngày 28-3-1956, Bộ Công nghiệp ban hành Nghị định số 91/BCNQĐ, đổi tên Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ thành Sở Địa chất, sau đó 2 năm thành Cục Địa chất, rồi năm 1960 đổi thành Tổng cục Địa chất. Nhân lực trong ngành địa chất phát triển rất nhanh, khi còn là Sở Địa chất chỉ có 257 người, đến Cục Địa chất đã có hơn 5 nghìn người và đến Tổng cục Địa chất có 22 nghìn người với hàng nghìn người có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp.
Ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi và miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt mục tiêu phải xây dựng một ngành công nghiệp dầu khí của đất nước đạt tầm cỡ quốc tế. Năm 1957, trong chuyến thăm các nước Đông Âu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm giàn khoan dầu ở Anbani và nhà máy lọc dầu ở Bungari. Trong chuyến thăm Liên Xô ngày 23-7-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Khu Công nghiệp Dầu khí Bacu (Azerbaijan), Người đã đề nghị Liên Xô giúp Việt Nam xây dựng ngành Dầu khí.
Một góc mỏ Bạch Hổ |
Theo đề nghị của Việt Nam, từ năm 1959, Liên Xô đã cử các chuyên gia có kinh nghiệm vừa nghiên cứu khảo sát, đánh giá triển vọng dầu khí, vừa đào tạo cán bộ Việt Nam. Một kế hoạch tổng thể về công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở miền Bắc Việt Nam đã được các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam đề xuất và từng bước triển khai.
Sau đó, nhiều học sinh và cán bộ đã được Đảng và Nhà nước cử sang Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác để học và thực tập về tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và lọc hóa dầu… Đó là Trường đại học Công nghiệp Dầu khí Mátxcơva mang tên Viện sĩ I.M. Gubkin và Trường đại học Dầu khí và Địa chất Bucarest – Rumani.
Năm 1958, Chính phủ Việt Nam quyết định mời Liên Xô giúp đỡ khảo sát, đánh giá triển vọng dầu khí ở Việt Nam. Khoảng cuối năm 1958, Chuyên gia N.K. Griaznov của Viện Nghiên cứu khoa học địa chất Thăm dò Dầu mỏ toàn Liên bang (VNIGNI) sang giúp Việt Nam lập kế hoạch thăm dò dầu khí. Đầu năm 1959, Chuyên gia N.K. Griaznov đã trình Cục Địa chất Việt Nam bản kế hoạch công tác phát hiện những vùng có triển vọng dầu lửa ở Việt Nam và bản đề nghị về dầu mỏ.
Sau đó, trên cơ sở đề xuất của N.K. Griaznov, Chính phủ Việt Nam đã cho phép Cục Địa chất ký hợp đồng với Bộ Địa chất Liên Xô về nghiên cứu địa chất, đánh giá triển vọng dầu khí ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hợp đồng trên được bắt đầu triển khai từ ngày 27-6-1959, với việc thành lập Đội khảo sát nghiên cứu địa chất dầu khí. Đội gồm chuyên gia S.K. Kitovani, kỹ sư trưởng địa chất khu vực về dầu mỏ, cán bộ địa chất Nguyễn Giao.
Tháng 4-1961, Báo cáo “Triển vọng dầu khí ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1959-1961)” đã hoàn thành với 302 trang đánh máy bằng tiếng Nga, kèm theo các bản vẽ về các mặt cắt địa chất, cột địa tầng đặc trưng cho từng vùng, bản đồ tướng đá, cổ địa lý cho từng thời kỳ, bản đồ phân vùng kiến tạo địa chất và đặc biệt là bản đồ phân vùng triển vọng dầu khí nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tỷ lệ 1/500.000.
Kể từ khi các nhà địa chất Pháp đề cập đến vấn đề dầu mỏ ở Đông Dương, có thể nói rằng, báo cáo của S.K. Kitovani và các nhà địa chất Việt Nam là công trình tổng hợp đầu tiên của nước ta về nghiên cứu địa chất và đánh giá triển vọng dầu khí trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, nó là cơ sở ban đầu định hướng một cách khoa học cho công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí về sau.
Trên cơ sở nhận định về triển vọng dầu khí ở miền Bắc Việt Nam và căn cứ Nghị định số 159-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 9-7-1961, để triển khai công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí, Tổng cục Địa chất địa chất ra Quyết định số 271- ĐC ngày 27-11-1961 thành lập Đoàn Thăm dò dầu lửa với số hiệu là Đoàn 36 dầu lửa (thường gọi là Đoàn 36) trực thuộc Tổng cục Địa chất. Đoàn 36 có nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dò dầu hỏa và khí đốt trên phạm vi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự kiện Đoàn Thăm dò dầu lửa 36 chính thức ra đời đánh dấu chặng đầu của những thay đổi, thăng trầm cùng đất nước và có thể nói mỗi bước phát triển của ngành đều góp phần tạo ra những bước thay đổi quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Ngày 20-7-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1034/QĐ-TTg lấy ngày 27-11 hằng năm là “Ngày Truyền thống ngành Dầu khí Việt Nam”.
Tiến ra biển lớn
Với sự trợ giúp của các chuyên gia Liên Xô, Việt Nam đã bắt đầu các hoạt động dầu khí có tổ chức, tiến hành công tác địa vật lý và khoan dầu khí ở Đồng bằng sông Hồng và vùng trũng An Châu. Ngày 18-3-1975 phát hiện mỏ khí Tiền Hải với trữ lượng xác minh đến 1,3 tỉ m3 đã đánh dấu sự kiện nổi bật của 15 năm tìm kiếm thăm dò dầu khí ở miền Bắc Việt Nam.
Hạ thủy giàn Tam Đảo 03 |
Trong giai đoạn này, ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn nhờ vào đầu tư và công nghệ nước ngoài cũng triển khai tìm kiếm thăm dò dầu khí ở thềm lục địa. Kết quả đã xác định được 3 bể trầm tích chủ yếu là Saigon-Brunei (Bể Nam Côn Sơn), Mê Kông (Bể Cửu Long) và vịnh Thái Lan (Bể Malay – Thổ Chu). Dựa vào kết quả tổng hợp khảo sát địa vật lý khu vực và chi tiết, cuối năm 1974 đến 30-4-1975 Công ty Pecten đã khoan 4 giếng (Hồng-1X, Dừa-1X, Dừa-2X, Mía-1X) và Công ty Mobil khoan 2 giếng TKTD (Bạch Hổ-1X và Đại Hùng-1X). Kết quả thử vỉa đã có lưu lượng dầu khí ở giếng Dừa-1X, có lưu lượng giá trị thương mại ở giếng Bạch Hổ-1X. Các giếng khác có gặp dấu vết dầu khí hoặc dừng khoan sớm do giải phóng miền Nam 30-4-1975. Tuy nhiên, kết quả của 6 giếng khoan đã khẳng định sự tồn tại dầu khí của các bể trầm tích khu vực thềm lục địa phía Nam.
Sau ngày 3-9-1975, một giai đoạn mới trong tiến trình phát triển công nghiệp dầu khí Việt Nam được mở ra. Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí được triển khai rộng rãi trên toàn quốc, trên hầu hết các bể trầm tích chứa dầu khí, kể cả đất liền và thềm lục địa.
Hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí ở phía bắc được tiếp tục phát triển trên đất liền và mở rộng ra vịnh Bắc Bộ, thuộc phạm vi bể trầm tích sông Hồng, bao gồm diện tích Đồng bằng sông Hồng và thềm lục địa phía bắc.
Năm 1976, Tổng cục Dầu khí Việt Nam đã tiếp xúc vòng đầu với 17 công ty dầu khí nhà nước: Pháp, Anh, Australia, Canada, Mehico, Italia, Na Uy, Nhật Bản… để chọn đối tác. Do cấm vận nên các công ty Mỹ chưa vào tiếp xúc. Năm 1978, lần lượt 3 hợp đồng dầu khí (Production Sharing Contract-PSC) đã được ký với Công ty Deminex (CHLB Đức), Agip (Italia) và Bow Valley (Canada). Ba nhà thầu này đã tiến hành công tác địa vật lý và khoan ở thềm lục địa miền Nam, nhưng không phát hiện được dầu khí thương mại nên đã chấm dứt hoạt động và rút khỏi Việt Nam.
Năm 1980 Việt Nam và Liên Xô đã ký Hiệp định hợp tác về thăm dò và khai thác dầu khí thềm lục địa Việt Nam. Từ đó các tàu nghiên cứu khoa học Poisk, Iskatel , Gambursev, Malưgin (Liên Xô) đã thực hiện khảo sát từ, trọng lực, địa chấn với mạng lưới khu vực, phủ toàn thềm lục địa Việt Nam từ vịnh Thái Lan đến vịnh Bắc Bộ, nhằm nghiên cứu cấu trúc và đánh giá tiềm năng các bể trầm tích Đệ Tam Việt Nam. Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt Xô (Vietsovpetro) được thành lập ngày 19-6-1981 để tiến hành các hoạt động thăm dò dầu khí ở bể Cửu Long (các lô 09 và 16) và sau này ở mỏ Đại Hùng (Lô 05 bể Nam Côn Sơn).
Ngày 26-6-1986, tấn dầu thô đầu tiên từ mỏ Bạch Hổ thuộc bể Cửu Long đã được khai thác. Năm 1988 phát hiện tầng dầu sản lượng cao từ móng đá granit nứt nẻ ở mỏ Bạch Hổ với dòng dầu tự phun, có lưu lượng đạt tới 407 tấn/ngày đêm và mỏ này được xếp vào trong số các mỏ có trữ lượng dầu khí lớn nhất Đông Nam Á. Sau Bạch Hổ, nhiều mỏ dầu mới ở tầng móng như Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc… đã lần lượt được phát hiện và đưa vào khai thác. Việc phát hiện và khai thác dầu khí trong móng granit nứt nẻ là một thành tựu có giá trị to lớn về khoa học và kinh tế. Các thành quả này đã đưa Việt Nam vào danh sách các nước sản xuất dầu khí trên thế giới.
Sau hơn nửa thế kỷ triển khai công tác tìm kiếm thăm dò, đến nay Việt Nam đã xác định được 8 bể trầm tích dầu khí có tuổi Cenozoic trên thềm lục địa và vùng biển của Việt Nam gồm: Bể trầm tích Sông Hồng, bể trầm tích Hoàng Sa, bể trầm tích Phú Khánh, bể trầm tích dầu khí Cửu Long, bể trầm tích dầu khí Nam Côn Sơn, bể trầm tích Tư Chính – Vũng Mây, bể trầm tích Trường Sa, bể trầm tích dầu khí Malay – Thổ Chu. Một số mỏ ở bể Cửu Long (được xem là bồn có chất lượng tốt nhất) như Bạch Hổ và mỏ Đại Hùng ở bồn trũng Nam Côn Sơn là những mỏ có chứa dầu cả ở đá móng. Mỏ Bạch Hổ cũng được xem là trường hợp ngoại lệ chứa dầu trong đá móng (chứa khoảng 80% dầu di chuyển từ nơi khác đến trong hệ thống khe nứt đá móng).
Nguồn dầu khí đã thăm dò, khảo sát của Việt Nam có trữ lượng tiềm năng khoảng trên 4 tỉ m3 dầu quy đổi và gần đây mở rộng tìm kiếm đã phát hiện một số mỏ mới cho phép gia tăng trữ lượng dầu khí của Việt Nam.
Từ năm 1988-1990, các hợp đồng PSC ký với các công ty nước ngoài như ONGC, Shell (Anh – Hà Lan) – Fina (Bỉ), Total (Pháp), BP, Enterprise Oil (Anh) và CEP (Pháp) được triển khai ở vịnh Bắc Bộ và thềm lục địa phía Nam, đã cho kết quả bước đầu tương đối khả quan, được xem là bước đột phá, dẫn đường cho hàng loạt các công ty dầu khí nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) được thành lập ngày 6-7-1990, tiếp tục đảm nhiệm các công tác tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến, dịch vụ và thương mại dầu khí. Luật Dầu khí ra đời tháng 7-1993 chính thức xác định vai trò chủ đạo của Petrovietnam trong hoạt động dầu khí ở Việt Nam. Hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ở bể Cửu Long phát triển mạnh mẽ, các nhà thầu đã tiến hành thu nổ hàng chục nghìn kilômét địa chấn và hàng trăm giếng thăm dò. Kết quả đã phát hiện được nhiều mỏ dầu và khí như Ruby, Topaz North, Peal, Diamond, Emirald, Cá Ngừ Vàng, Đồi Mồi, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng, Rạng Đông, Phương Đông, Tê Giác Trắng, trong đó phần lớn đã được đưa vào khai thác.
Hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ở bể Nam Côn Sơn từ nhiều năm trước, nay được tiếp tục mạnh mẽ hơn. Nhiều hợp đồng dầu khí được triển khai, các nhà thầu đã tiến hành thu nổ hàng chục ngàn kilômét địa chấn và khoan thăm dò hàng trăm giếng. Kết quả đã phát hiện được nhiều mỏ dầu khí có giá trị như Lan Tây, Lan Đỏ, Rồng Đôi – Rồng Đôi Tây, Hải Thạch, Mộc Tinh… trong đó các mỏ Đại Hùng, Lan Tây, Rồng Đôi – Rồng Đôi Tây đã được đưa vào khai thác.
Thăm dò dầu khí ở bể Malay – Thổ Chu vẫn có từ trước, song từ sau năm 1990 hoạt động này trở nên sôi động hơn bởi các hợp đồng với các công ty Fina Exploration Minh Hải, IPL-Talisman, Unocal-Chevron, đặc biệt là thỏa thuận giữa Việt Nam và Malaysia về khu vực chồng lấn (PM3-CAA). Các công ty đã tiến hành đo địa chấn, khoan hàng trăm giếng thăm dò và thẩm lượng. Kết quả đã phát hiện hàng loạt các mỏ dầu và khí như Bunga Ketwa, Bunga Raya, Bunga Orkid, Bunga Seroja, Cái Nước, Sông Đốc, Kim Long, Ác Quỷ… 6 mỏ trong số đó đã được đưa vào khai thác.
Nhằm đảm bảo an ninh năng lượng cho chiến lược phát triển kinh tế đất nước, vấn đề đầu tư thăm dò khai thác ở nước ngoài đã được Petrovietnam đặt ra từ năm 1998. Từ năm 1999-2000 một loạt các dự án này được triển khai ở Mông Cổ, Malaysia, Iraq, Algeria, Indonesia, Venezuela, Nga, Uzbekistan…
Tính đến hết năm 2014, ở nước ngoài Petrovietnam có 17 dự án đang hoạt động, trong đó có 8 dự án phát triển khai thác dầu khí. Dự báo sản lượng đỉnh đạt đến 6 triệu tấn/năm.
Ngày 15-11-2013, Việt Nam xuất bán tấn dầu thô thứ 300 triệu. Năm 2014, tổng sản lượng khai thác dầu thô trong và ngoài nước đạt 17,39 triệu tấn. Sản lượng khí đạt 10,21 tỉ m3. Đến nay, Việt Nam đã khai thác được khoảng 340 triệu tấn dầu thô và khoảng hơn 100 tỉ m3 khí.
Dự kiến trong 5 năm 2015-2020, Petrovietnam sẽ đạt chỉ tiêu gia tăng trữ lượng 165-200 triệu tấn quy dầu, khai thác từ 85-90 triệu tấn dầu thô và 55-60 tỉ m3 khí.
Petrovietnam đã, đang và sẽ tiếp tục hợp tác với nhiều công ty dầu khí nước ngoài để thăm dò khai thác dầu khí trên toàn bộ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Khối lượng công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trên vùng biển, thềm lục địa Việt Nam đã đạt trên 500.000km tuyến khảo sát địa chấn 2D, trên 50.000km2 địa chấn 3D và khoảng 900 giếng khoan.
Sau hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, đến nay, Petrovietnam đặt mục tiêu trong Chiến lược phát triển là đẩy mạnh việc tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng có thể khai thác; Ưu tiên phát triển những vùng nước sâu, xa bờ; Tích cực triển khai hoạt động đầu tư tìm kiếm, thăm dò dầu khí ra nước ngoài. Phấn đấu gia tăng trữ lượng dầu khí đạt 35-40 triệu tấn quy dầu/năm. Khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu khí trong nước để sử dụng lâu dài; đồng thời tích cực mở rộng hoạt động khai thác dầu khí ở nước ngoài để bổ sung phần thiếu hụt từ khai thác trong nước. Phấn đấu khai thác 25-38 triệu tấn quy dầu/năm, trong đó khai thác dầu thô giữ ổn định ở mức 18-20 triệu tấn/năm và khai thác khí 6-17 tỉ m3/năm.
Nguyễn Tiến Dũng