Qua hơn 18 năm xây dựng hệ thống tổ chức tư vấn pháp luật của tổ chức công đoàn, công tác tư vấn pháp luật đã đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ và đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên và công nhân viên chức lao động (CNVCLĐ). Tuy nhiên, công tác tư vấn pháp luật đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế về mô hình tổ chức, đội ngũ cán bộ và chất lượng hoạt động.
Việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật là vấn đề cấp thiết nhằm tạo bước chuyển biến tích cực trong hoạt động của các cấp công đoàn, góp phần thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên và CNVCLĐ.
I. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN PHÁP LUẬT CỦA CÁC CẤP CÔNG ĐOÀN TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN PHÁP LUẬT CỦA CÁC CẤP CÔNG ĐOÀN TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Về tổ chức:
Đến nay các cấp công đoàn đã thành lập được 47 Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật, 569 Tổ tư vấn pháp luật. Trong đó có 14 Trung tâm tư vấn pháp luật có tư cách pháp nhân trực thuộc Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, CĐ Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn, 33 Văn phòng tư vấn pháp luật là bộ phận trực thuộc các Ban chuyên đề của LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, CĐ Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn và 569 Tổ tư vấn pháp luật thuộc LĐLĐ Huyện, Công đoàn khu công nghiệp …
Đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật đã được nâng lên về số lượng, từng bước được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng tư vấn và kiến thức pháp luật. Tuy nhiên, số cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật chuyên trách ở các cấp công đoàn còn ít, đa số là cán bộ kiêm nhiệm; Bên cạnh đó, trình độ, năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật còn hạn chế, tỷ lệ cán bộ có trình độ cử nhân luật còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về cơ sở vật chất ở các Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật còn nhiều khó khăn, trong số 47 Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật chỉ có 17 Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật có trụ sở làm việc riêng, số còn lại nơi làm việc ghép chung với các Ban chuyên đề của LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc TLĐ. Kinh phí hỗ trợ của công đoàn cho các Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật còn hạn chế.
2. Về hoạt động:
2. Về hoạt động:
Hoạt động của Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật đã có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả tập trung vào một số nội dung: tư vấn pháp luật, tập huấn, tuyên truyền phổ biến pháp luật, tham gia bảo vệ đoàn viên và người lao động trước toà án, tham gia xây dựng văn bản pháp luật, tham gia giải quyết các tranh chấp lao động tập thể – đình công… Tuy nhiên, hoạt động của một số Trung tâm, Văn phòng tư vấn pháp luật còn thụ động, chưa hướng về cơ sở và người lao động, chưa có sự phối hợp chặt chẽ về chuyên môn giữa các Ban chuyên đề với hoạt động tư vấn pháp luật; Số lượng vụ việc tham gia tư vấn và bảo vệ đoàn viên, người lao động trước toà án còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu của đoàn viên và người lao động.
Nguyên nhân của tình hình trên là do một số LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn chưa nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của công tác tư vấn pháp luật trong tình hình mới, nên chưa tập trung quan tâm thành lập các Trung tâm, Văn phòng tư vấn pháp luật hoặc chưa quan tâm đầu tư cán bộ, kinh phí, cơ sở vật chất cho hoạt động tư vấn pháp luật. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng cho cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật chưa được chú trọng; chưa có các quy định cụ thể về biên chế, chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật, cộng tác viên… ; Một số văn bản quy định của nhà nước và công đoàn về công tác tư vấn pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ, ảnh hưởng đến hoạt động tư vấn pháp luật của công đoàn.
II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ VẤN PHÁP LUẬT CỦA CÔNG ĐOÀN
II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ VẤN PHÁP LUẬT CỦA CÔNG ĐOÀN
1. Quan điểm:
1.1. Các cấp công đoàn cần xác định công tác tư vấn pháp luật của công đoàn là công cụ, là hoạt động quan trọng để tổ chức công đoàn thực hiện chức năng đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và CNVCLĐ.
1.2. Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư vấn pháp luật ở các cấp công đoàn, coi đây là hoạt động thường xuyên của các cấp công đoàn để phục vụ đông đảo đoàn viên và CNVCLĐ.
1.3. Quan tâm đầu tư đội ngũ cán bộ, kinh phí và cơ sở vật chất cho công tác tư vấn pháp luật bảo đảm hoạt động hiệu quả, góp phần thực hiện tốt chức năng đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên, CNVCLĐ và nhiệm vụ của các cấp công đoàn.
2. Mục tiêu:
2. Mục tiêu:
2.1. Phấn đấu đến năm 2013 thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật ở các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố có đông CNVCLĐ, có nhiều doanh nghiệp và khu công nghiệp; các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố còn lại thành lập Văn phòng tư vấn pháp luật. Đối với các Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc TLĐ có đông CNVCLĐ và nhiều công đoàn cơ sở thành lập Văn phòng tư vấn pháp luật; các Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc TLĐ còn lại thành lập Tổ tư vấn pháp luật.
2.2. Tập trung đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ: trong đó 100% cán bộ chuyên trách làm công tác tư vấn pháp luật có trình độ Cử nhân luật hoặc sau đại học chuyên ngành luật và được đào tạo về kỹ năng về tư vấn pháp luật; các Trung tâm tư vấn pháp luật có ít nhất từ 1-2 Luật sư, Luật gia là cộng tác viên.
3. Giải pháp:
3. Giải pháp:
3.1. Củng cố, hoàn thiện mô hình tổ chức các Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật của Công đoàn:
a. Tập trung củng cố kiện toàn Trung tâm tư vấn pháp luật ở các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố hiện có.
b. Nâng cấp Văn phòng tư vấn pháp luật thành Trung tâm tư vấn pháp luật ở các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố nơi có đông CNVCLĐ, có nhiều doanh nghiệp và khu công nghiệp.
c. Đối với các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành TW; Công đoàn Tổng Công ty hiện đang có Văn phòng tư vấn pháp luật thì tiếp tục kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động.
d. Đối với các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố chưa có Văn phòng tư vấn pháp luật thì khẩn trương nghiên cứu xây dựng đề án thành lập Văn phòng tư vấn pháp luật, khi có đủ điều kiện và có nhu cầu thì chuyển thành Trung tâm tư vấn pháp luật.
đ. Đối với các Công đoàn ngành TW; Công đoàn Tổng Công ty chưa có Văn phòng tư vấn pháp luật thì nghiên cứu xây dựng đề án thành lập Văn phòng tư vấn pháp luật hoặc Tổ tư vấn pháp luật.
e. Thống nhất đầu mối quản lý Văn phòng tư vấn pháp luật trực thuộc Ban Chính sách – Pháp luật, Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành TW; Công đoàn Tổng Công ty. Các Trung tâm tư vấn pháp luật là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành TW; Công đoàn Tổng Công ty và có mối quan hệ phối hợp về chuyên môn với Ban Chính sách – Pháp luật, Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành TW; Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc TLĐ.
3.2. Bố trí biên chế cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật cho các Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật:
a. Đối với Trung tâm tư vấn pháp luật: Có ít nhất 2 cán bộ chuyên trách làm tư vấn viên có trình độ cử nhân luật trở lên, được ký hợp đồng lao động đối với cộng tác viên là Luật sư , Luật gia (từ 1-2 người).
b. Đối với Văn phòng tư vấn pháp luật: Có ít nhất 1 cán bộ chuyên trách làm tư vấn viên có trình độ cử nhân luật trở lên, các thành viên khác là cán bộ Công đoàn kiêm nhiệm đang công tác ở các Ban chuyên đề (Chính sách – Pháp luật, Tổ chức, Uỷ ban kiểm tra, Tuyên giáo, Nữ công…).
c. Đối với Tổ tư vấn pháp luật: Là cán bộ kiêm nhiệm đang công tác ở Ban Chính sách Pháp luật và các Ban chuyên đề của Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn (nơi chưa đủ điều kiện thành lập Văn phòng tư vấn pháp luật) hoặc ở các Ban chuyên đề LĐLĐ cấp huyện, Công đoàn khu công nghiệp; trong đó Tổ trưởng có trình độ cử nhân luật trở lên.
3.3. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật:
a. Chuẩn hoá cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật của công đoàn. Đối với cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật chưa có trình độ cử nhân luật thì tạo điều kiện để học tập, nâng cao trình độ đảm bảo 100% cán bộ chuyên trách làm công tác tư vấn pháp luật có trình độ cử nhân luật trở lên.
b. Phối hợp với Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng đội ngũ Luật sư, Luật gia, Tư vấn viên tư vấn pháp luật của Công đoàn.
c. Tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn và bổ túc kiến thức pháp luật hằng năm nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác tư vấn pháp luật.
d. Xây dựng chính sách thu hút đội ngũ cộng tác viên là Luật sư, Luật gia tham gia vào các hoạt động tư vấn pháp luật của Công đoàn.
3.4. Đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho công tác tư vấn pháp luật của Công đoàn:
a. Về kinh phí:
Dành nguồn ngân sách công đoàn hợp lý để chi cho các hoạt động tư vấn pháp luật theo các mô hình sau:
– Đối với Trung tâm tư vấn pháp luật tự cân đối thu chi: Chi tiền lương cho 2 cán bộ chuyên trách, các khoản chi khác do đơn vị tự cân đối ; Đối với Trung tâm tư vấn pháp luật hỗ trợ một phần kinh phí: Chi tiền lương cho 2 cán bộ chuyên trách và một phần kinh phí do đơn vị xây dựng dự toán do Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc TLĐ xem xét quyết định; Đối với Trung tâm tư vấn pháp luật hỗ trợ 100% kinh phí: toàn bộ kinh phí do ngân sách Công đoàn hỗ trợ (đơn vị xây dựng dự toán kinh phí, Ban thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc TLĐ xem xét, quyết định).
– Đối với Văn phòng tư vấn pháp luật: Ngân sách chi tiền lương cho 1 cán bộ chuyên trách, phụ cấp cho cán bộ kiêm nhiệm và hỗ trợ các hoạt động do Văn phòng tư vấn pháp luật đề xuất.
b. Về cơ sở vật chất:
– Đối với Trung tâm tư vấn pháp luật: Có văn phòng làm việc riêng, trang bị một số phương tiện để đảm bảo hoạt động như: bàn ghế, tủ, điện thoại, máy photocopy, máy vi tính, máy chiếu .v.v.
– Đối với Văn phòng tư vấn pháp luật: Văn phòng làm việc có thể bố trí phòng riêng hoặc ghép chung với nơi làm việc của Ban Chính sách – Pháp luật và trang bị các phương tiện làm việc như Trung tâm tư vấn pháp luật.
3.5. Nâng cao năng lực hoạt động Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật:
a. Đổi mới hình thức tư vấn pháp luật đa dạng, phong phú như: Tư vấn trực tiếp, tư vấn lưu động (tại khu công nghiệp, khu nhà trọ, doanh nghiệp), Tư vấn qua điện thoại, trang Web, tư vấn qua trả lời báo chí, truyền hình. Nội dung tư vấn tập trung về lao động, công đoàn, từng bước mở rộng các nội dung tư vấn khác: về Hôn nhân gia đình, dân sự, kinh tế, hình sự, phá sản doanh nghiệp.
b. Xây dựng đội ngũ cộng tác viên là các Luật sư, Luật gia có tâm huyết với Công đoàn và người lao động để tham gia các hoạt động tư vấn pháp luật.
c. Nâng cao năng lực để các tư vấn viên hỗ trợ đoàn viên, CNVCLĐ trong quá trình tham gia tố tụng, nhất là các vụ án lao động ; Các tư vấn viên của Trung tâm tư vấn pháp luật phải được đào tạo kỹ năng làm Luật sư của Công đoàn.
d. Tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho đoàn viên và CNVCLĐ; tham gia vào việc hoà giải, giải quyết các tranh chấp lao động tập thể – đình công; tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và biên soạn các tài liệu tuyên truyền pháp luật.
3.6. Tăng cường sự phối hợp giữa Công đoàn với các tổ chức, cơ quan trong hoạt động tư vấn pháp luật:
a. Tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cấp uỷ và chính quyền các cấp, đặc biệt là ngành Tư pháp, Toà án nhân dân, Hội Luật gia và Đoàn Luật sư .
b. Phối hợp với Toà án nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn hoạt động tham gia tố tụng của Công đoàn.
c. Nghiên cứu thành lập Câu lạc bộ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật của Công đoàn nhằm trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ thông tin trong công tác tư vấn pháp luật.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Đối với Tổng Liên đoàn:
– Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn giao cho Ban Chính sách – Pháp luật là đầu mối tham mưu cho Đoàn Chủ tịch quản lý, theo dõi về chuyên môn nghiệp vụ đối với các Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật trong hệ thống Công đoàn.
– Xây dựng Quy chế hoạt động của các Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật trong hệ thống Công đoàn.
– Hướng dẫn hoạt động tư vấn pháp luật trong hệ thống Công đoàn.
– Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật của Công đoàn.
– Nghiên cứu ban hành các quy định về biên chế, chế độ phụ cấp kiêm nhiệm, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất cho Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật trong hệ thống Công đoàn.
– Đẩy mạnh hoạt động quốc tế và quan hệ với các cơ quan hữu quan trong việc phối hợp hoạt động và nâng cao năng lực hoạt động tư vấn pháp luật của công đoàn.
2. Đối với các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành TW; Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn:
2. Đối với các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành TW; Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn:
– Quản lý toàn diện hoạt động của các Trung tâm tư vấn pháp luật và Văn phòng tư vấn pháp luật. Xem xét quyết định thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật sau khi xin ý kiến Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn. Chỉ đạo các Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật xây dựng quy chế hoạt động. Quan hệ với các tổ chức, cơ quan để hỗ trợ hoạt động tư vấn pháp luật ở địa phương, ngành mình.
– Bố trí cán bộ, nơi làm việc, cơ sở vật chất và kinh phí phục vụ cho hoạt động của Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật.
– Chỉ đạo các Ban chuyên đề có trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật trực thuộc đảm bảo hoạt động hiệu quả.
– Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật ở ngành và địa phương mình.
– Chỉ đạo, hướng dẫn các LĐLĐ cấp huyện, Công đoàn khu công nghiệp thành lập và hoạt động Tổ Tư vấn pháp luật.
3. Đối với các Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật:
3. Đối với các Trung tâm tư vấn pháp luật, Văn phòng tư vấn pháp luật:
– Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật đảm bảo hiệu quả, thiết thực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
– Xây dựng quy chế hoạt động trình Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố; Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc TLĐ phê duyệt.
– Tham mưu, đề xuất cho Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc TLĐ xem xét các vấn đề: biên chế, kinh phí, đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ.
Nghị quyết này được triển khai đến các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc TLĐ, các Trung tâm và Văn phòng tư vấn pháp luật của hệ thống Công đoàn. Căn cứ nội dung Nghị quyết, các cấp Công đoàn xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện và báo cáo kết quả hàng năm về Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (qua Ban Chính sách – Pháp luật).
Nghị quyết này được triển khai đến các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành TW, Công đoàn Tổng công ty trực thuộc TLĐ, các Trung tâm và Văn phòng tư vấn pháp luật của hệ thống Công đoàn. Căn cứ nội dung Nghị quyết, các cấp Công đoàn xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện và báo cáo kết quả hàng năm về Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (qua Ban Chính sách – Pháp luật).
TM. ĐOÀN CHỦ TỊCH
CHỦ TỊCH
Đặng Ngọc Tùng
CHỦ TỊCH
Đặng Ngọc Tùng