Việc khởi đầu công tác địa vật lý thật gian truân, đời người tìm kiếm dầu khí như cánh chim trời, bay đến mọi nơi, đâu cũng hóa đất lành, đâu cũng hẹn ngày trở lại. Song những người đi tìm “vàng đen” đã vượt qua những gian nan ban đầu để có các kết quả nghiên cứu chính xác, đóng góp vào những thành tựu của ngành Dầu khí hôm nay.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng cùng Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí Nguyễn Văn Biên thăm giếng khoan 61 (ngày 16-3-1976) |
Khởi đầu nan
Đoàn Địa chất 36 đóng tại thị xã Bắc Ninh, sau chuyển về thị xã Hưng Yên. Hồi ấy, chuyên gia Liên Xô ở nhà xây hai tầng. Cán bộ, nhân viên Việt Nam ở nhà tranh vách đất, nhà tập thể, 10 người một gian. Những người làm thực địa, công tác lưu động khắp nơi, chỉ hằng tháng về Đoàn bộ họp hành, báo cáo công việc, lĩnh lương. Nói theo kiểu anh em bỗ bã với nhau là “lội đồng suốt đời”. Không phân biệt kỹ sư hay công nhân, mùa hè, tất cả đều quần đùi, cởi trần, mũ lá cọ như nhau. Nơi gần thì ở nhà dân, nơi xa dựng lều ăn ngủ giữa đồng. Nhóm kỹ thuật có mấy người, còn lại là công nhân đường dây. Hết giờ làm việc, vất mấy cuộn dây vào lều, vài người ở lại trông máy, người khác lo sửa chữa thiết bị nạp ắc quy ở thị xã. Sau này khảo sát ở Thái Bình, chuyên gia ở khách sạn Cầu Bo, cán bộ, công nhân Việt Nam ở nhà dân. Có lần, các nữ dân quân làng Tiên Hưng trú mưa ở nhà bạt che trạm máy, tưởng là lều vịt, trông thấy máy móc lạ lẫm, săn đón mời các anh vào làng… xơi cơm.
Vào một sáng sớm mùa đông, lều bạt của chúng tôi trên gò cao giữa đồng, đang ấm giấc trên ổ rơm, bỗng nhiên có người đánh thức:
– Dậy, dậy! Các chú chuyển ngay đi nơi khác, đây là mả hủi, mọi người đều tránh xa…
– Dạ thưa cụ, đây là nơi cao ráo nhất cánh đồng, chúng cháu ở đây đã mấy ngày rồi mà có thấy ai nói gì đâu. Vả lại tuyến khảo sát nhất thiết phải đi qua đây, chúng cháu chưa dời đi nơi khác được! – một người trong chúng tôi nói.
Ông cụ khẽ lắc đầu rồi thở dài, chắc là thấy những người làm dầu khí cũng vất vả không kém gì người nông dân chân lấm tay bùn.
Với chiếc balô trên vai, chúng tôi lặn lội khắp miền núi, vùng đồng bằng, ven biển ngập nước, thực hiện thăm dò để phát hiện các mỏ dầu khí. Đội địa chấn nổ mìn làm rạn nứt mương máng, nhưng bà con không bắt đền, không nhận bồi thường, lại cho ăn uống nữa. Các bác cao tuổi ví người đi tìm dầu khí hơn cả đi tìm vàng cho đất nước. Vàng đã quý, công tìm “vàng đen” lại càng quý hơn. Người dân cũng chịu thiệt thòi đôi chút, cùng đóng góp cho sự nghiệp dầu khí chứ sao! Không ít người dân khi có dịp trò chuyện với chúng tôi đã tâm sự, chia sẻ như vậy. Những lần như thế, chúng tôi lại càng thấy trách nhiệm, nhắn nhủ nhau làm tốt hơn nữa công việc của mình.
Khi khảo sát trên sông, người và trạm máy trên thuyền, máy thu sóng trên bè luồng bồng bềnh quanh co trên mặt nước. Khi chúng tôi chèo thuyền trong đêm trăng Trà Lý, khi đón bình minh trên sông Tiên Hưng, lúc thả neo trong hoàng hôn nơi sông Luộc. Mùa hè tắm nước phù sa còn mát hơn trong phòng điều hòa máy lạnh. Những lần nổ mìn dưới sông, hai bờ nhộn nhịp đông vui. Cá chết nhiều nổi trắng mặt sông, cũng là nguồn cung cấp thực phẩm cho Đội địa chấn. Dọc theo sông, người ăn ở trên thuyền, nơi gần dân, gần chợ thì có củi lửa, có rau đậu để ngày hai bữa thổi nấu với nhau. Khi xa dân, xa chợ thôi thì qua quýt cho xong, nhiều khi chúng tôi hết gạo, ăn khoai lang luộc thay cơm…
Xây lắp chân đế giàn khoan dầu khí ở Thái Bình |
Nhớ tới niềm vui thí nghiệm thăm dò địa chấn ở cánh đồng làng gà Đông Cảo, Khoái Châu. Đây là thí nghiệm đầu tiên xem thử có sóng phản xạ từ lòng đất hay không. Hồi ấy, các anh Trương Minh, Trần Cảnh, Nguyễn Đức Tuấn, Võ Long, Phạm Đình Phàng, Nguyễn Thanh, các chị Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Nguyễn Thị Bích Thụ được sự giúp đỡ nhiệt tình của đoàn chuyên gia Liên Xô đứng đầu là kỹ sư Masiu Tovar và của anh Hồ Đắc Hoài từ Tổng cục Địa chất. Hôm ấy, Hưng Yên lồng lộng trời xanh, mùa lúa nước dậy thì mơn man hương đồng gió nội. Hai ngọn cờ đỏ đuôi nheo phần phật gió chắn giữ hai đầu con đường đồng đầy cỏ may. Cạnh bên cờ chỉ giới là hai tốp bảo vệ đeo băng đỏ hướng dẫn bà con đi vòng lối khác. Một việc làm, hai tác dụng, vừa bảo đảm an toàn cho người, vừa tránh gây nhiễu, làm ảnh hưởng đến độ chính xác của thí nghiệm. Đúng giờ khai hỏa, 2,5kg thuốc nổ phát nổ trên mặt đất, một cột khói bốc cao, đồng ruộng nhà cửa rung lên như động đất, nước sóng sánh bờ, tràn lên trên mặt đường. Trạm máy địa chấn SS-24P của Liên Xô và các máy thu sóng đã ghi được các đợt tín hiệu sóng phản xạ đầu tiên, 24 đường ghi trên giấy ảnh hiện lên các đợt sóng địa chấn rõ nét tuyệt vời.
Bước đầu thí nghiệm thành công tốt đẹp. Chuyên gia vui, Đoàn trưởng Bùi Đức Thiệu cười khà khà bắt tay chúc mừng mọi người. Chúng tôi cảm ơn lòng đất đã không phụ lòng người.
Niềm vui cùng suy nghĩ chưa yên tâm vì sóng phản xạ còn yếu và khá nông đã làm chúng tôi thao thức trắng đêm. Chúng tôi cùng các chuyên gia bàn bạc phải nổ mìn trong giếng khoan dưới mặt đất để tăng năng lượng sóng và tránh nhiễu loạn của lớp đất bở rời trên mặt. Cuộc thí nghiệm phải tiếp tục chọn chiều sâu bắn mìn thích hợp để tăng chiều sâu nghiên cứu. Quả thật, nổ mìn trong giếng khoan nông 15-18m đã cho phản xạ đến 1,8-2,0 giây, tức là chiều sâu khảo sát có thể đến trên 3.000m. Dựa vào kết quả thí nghiệm, phương án thăm dò địa chấn phản xạ đầu tiên cho vùng trũng sông Hồng đã được thảo ra.
Thuở ấy, công việc xử lý phân tích số liệu chưa có máy tính, mọi việc đều làm bằng cây bút chì màu, chiếc máy Nisa quay tay và cậy nhờ vào kiến thức địa vật lý – địa chất, khả năng tổng hợp của con người. Rồi các phương án kỹ thuật chi tiết và mở rộng tiếp theo được thực hiện, xây dựng các lát cắt, vẽ nên bản đồ và phát hiện hàng loạt các cấu tạo có triển vọng dầu khí, chỉ ra vị trí các giếng khoan cấu tạo, đầu tiên là giếng khoan Khoái Châu. Thật bất ngờ, thú vị là lát cắt địa tầng giếng khoan đã khẳng định và liên kết được các phản xạ tiên liệu. Tại đây phát hiện than gầy, có dấu hiệu khí metan.
Lãnh đạo Liên đoàn 36 bên ống dẫn khí đang phun tại GK-61 năm 1975 |
Các giếng khoan cấu tạo tiếp theo đặt tại Phủ Cừ, Tiên Hưng, Tiền Hải, Kiến Xương… với chiều sâu đến 1.200m. Từ năm 1970, các giếng khoan thông số, thăm dò đến chiều sâu trên 3.000-5.000m được khoan ở các cấu tạo Phủ Cừ, Tiên Hưng, Tiền Hải ABC, Kiến Xương C (Xuân Thủy, Nam Định). Đặc biệt, các giếng khoan tìm kiếm số 61, 63 tại Tiền Hải phát hiện dầu thô và dòng khí đốt lưu lượng mạnh. Mỏ khí Tiền Hải là “đứa con đầu lòng” của ngành Dầu khí Việt Nam, đã nhiều năm cống hiến cho sự phát triển điện lực và công nghiệp địa phương Thái Bình.
Nhìn xuyên lòng đất
Phương pháp đo địa chấn phản xạ đã mang lại những hiệu quả bất ngờ, song vẫn còn nhược điểm, chỉ lấn sâu vào lòng đất chưa tới 3.500m. Trong địa vật lý có nhiều phương pháp có thể dùng để khắc phục nhược điểm này. Địa chấn khúc xạ liên kết có thể nghiên cứu sâu đến tầng móng trầm tíchĐệ Tam.
Thế là một cuộc thí nghiệm mới lại bắt đầu. Lý thuyết đã học rồi, nhưng thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Ngày đi làm, tối về bên đèn dầu, lần giở những tài liệu ngoại quốc, mong tìm ra phương thức thực tế áp dụng. Lúc bấy giờ Việt Nam chưa có loại máy địa chấn khúc xạ. Về nguyên lý chung, sóng địa chấn có tần số thấp hơn sóng phản xạ, xuyên rất sâu vào lòng đất. Cuối cùng, tôi chủ trì dự án cùng đồng nghiệp huy động những trí tuệ địa vật lý Việt Nam, có sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô, đã cải tiến máy địa chấn phản xạ thành máy khúc xạ. Kỹ sư điện tử Bùi Xuân Toại đã giúp chúng tôi rất nhiều trong công việc này.
Đó là cải tiến theo hướng hạ tần số của máy thu sóng và máy khuyếch đại tín hiệu địa chấn. Việc làm này cũng không phức tạp lắm, song trong điều kiện Việt Nam lúc bấy giờ thật sự khó khăn vì thiếu các phương tiện kỹ thuật và phụ tùng cần thiết. Qua nhiều đêm suy nghĩ, tôi đề xuất mài mỏng và cho axít ăn mòn các lò xo lá nhíp trong máy thu và lắp thêm tụ điện trong các máy khuyếch địa chấn phản xạ, còn phải cải tiến cách truyền xung nổ qua vô tuyến để đánh dấu thời gian nổ. Kiểm tra trong phòng thí nghiệm cho các thông số thu ghi đạt yêu cầu. Thử nghiệm thực tế ở Phủ Cừ cho kết quả đầu tiên rất tốt, hơn cả dự kiến. Chưa thỏa mãn, lượng thuốc nổ trong đo khúc xạ không phải chỉ là hàng kilôgam mà lên đến trên 1 tấn, phải khoan trên 40 giếng nạp mìn, phải cải tiến máy bắn mìn sao cho cùng một lúc đồng thời nổ 40 kíp nổ.
Giếng khoan 61 tại xã Đông Cơ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình ngày nay |
Phương án địa chấn khúc xạ cho toàn Tam giác châu thổ sông Hồng được xây dựng, các tuyến khảo sát dài hàng trăm kilômét, từ Nam Định đến Quảng Ninh, từ Tiền Hải đến Gia Lâm. Mỗi lần rải dây máy dài đến 5km. Thu sóng tại Thái Bình mà nổ mìn từ Phố Viềng – Nam Định và Quảng Yên – Quảng Ninh xa đến trăm cây số. Như con vạc ăn đêm, công việc thu nổ địa chấn khúc xạ chỉ làm về đêm, khi mọi người đã say giấc nồng. Thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi nhiễu loạn do “hoạt động về đêm” của con người. Công việc rất phức tạp và khá vất vả, nhưng bên cạnh chúng tôi đã có các học trò vừa là bạn đồng nghiệp thân thiết rất thông minh, tháo vát như Nguyễn Chí Liễn, Mai Thanh Tân, Võ Long, Phạm Đình Phàng tận tình giúp đỡ để vượt qua khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua trong thời gian ấy. Nhớ lại lần đo sóng tại Phố Viềng – Nam Định, chiều hôm đó, chúng tôi vừa thu dọn di dời xong thiết bị và hệ thống thu phát vô tuyến thì máy bay Mỹ đến ném bom đúng vị trí đặt máy, xới tung cả một vùng, rất may mắn người và thiết bị đã được di dời từ tối hôm trước.
Từ năm 1969, công việc này được anh Nguyễn Trí Liễn và anh Võ Long tiếp tục và hoàn thành tốt đẹp. Phương án địa chấn khúc xạ đã vẽ được các mặt cắt địa chấn sâu, khảo sát được đáy trầm tích Đệ Tam ở vùng xung quanh Trũng sông Hồng.
Nghĩ lại càng thấy việc khởi đầu của công tác địa vật lý thật khó khăn và gian truân, đời người tìm kiếm dầu khí như cánh chim trời, bay đến mọi nơi, đâu cũng hóa đất lành, đâu cũng hẹn ngày trở lại. Hồi ấy, tinh thần thật hăng hái, nhiệt tình, lòng người thật tốt, bao dung nhân hậu, cao đẹp thánh thiện đến thế. Chính nhờ những điều đó mà chúng tôi đã vượt qua được gian nan ban đầu để có các kết quả nghiên cứu chính xác đóng góp vào những thành tựu của ngành Dầu khí hôm nay.
Phương án địa chấn khúc xạ cho toàn Tam giác châu thổ sông Hồng được xây dựng, các tuyến khảo sát dài hàng trăm kilômét, từ Nam Định đến Quảng Ninh, từ Tiền Hải đến Gia Lâm. Mỗi lần rải dây máy dài đến 5km. Thu sóng tại Thái Bình mà nổ mìn từ Phố Viềng – Nam Định và Quảng Yên – Quảng Ninh xa đến trăm cây số…
(Xem tiếp kỳ sau)
TSKH Trương Minh – nguyên Phó viện trưởng Viện Dầu khí Việt Nam