Tới Giáp Ngọ 2014 này, bài thơ chúc Tết xuân Kỷ Dậu – 1969 bài thơ chúc Tết cuối cùng của Bác đã là 45 năm. Đã 45 năm qua, mỗi khi tết đến xuân về, vào đêm trừ tịch chúng ta không còn được nghe lời thơ chúc tết hào sảng của Bác gửi đồng bào, chiến sĩ cả nước cũng như kiều bào ở nước ngoài. Bởi vậy, suốt 45 năm qua, mỗi lần giao thừa là lúc chúng ta nhớ Bác hơn mọi thời khắc.
Sinh thời, Bác Hồ có 22 bài thơ chúc tết. Trừ bài thơ chúc tết đầu tiên viết năm 1942 dưới Mặt trận Việt Minh, còn 21 bài thơ chúc tết còn lại, Bác viết trong cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đồng bào cả nước. Các nhà nghiên cứu đã phân định nội dung thơ chúc Tết của Bác thường có các phần: tổng kết tình hình năm qua, nhận định tình hình sắp tới, chúc tết đồng bào và kêu gọi đoàn kết, thi đua ái quốc để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hai câu kết trong thơ mừng xuân 1964, Bác viết:
Mấy lời thân ái, nôm na
Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân.
Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân.
Bài Thơ chúc tết cuối cùng nhân dịp xuân Kỷ Dậu – 1969 chỉ có 6 câu lục bát:
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào.
Bắc – Nam sum họp xuân nào vui hơn.
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào.
Bắc – Nam sum họp xuân nào vui hơn.
“Năm qua thắng lợi vẻ vang” là Bác nhắc tới Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, quân ta đã đánh thẳng vào các thành phố lớn và ngay cả toà Đại sứ Mỹ chính giữa Sài Gòn, làm cho đế quốc Mỹ và tay sai vô cùng hoang mang và lo sợ. Với cuộc thử sức và đà thắng lợi đó, Bác tin tương lai “chắc càng thắng to”. Và đúng như vậy, từ năm 1969 trở đi, phong trào đấu tranh giải phóng miền Nam mỗi năm một phát triển mạnh, và đến mùa xuân năm 1975 đã thắng lợi hoàn toàn.
Bác nhấn mạnh mục đích chiến đấu hết sức thiêng liêng của dân tộc ta là “vì độc lập, vì tự do”. Bác luôn coi rằng, với đất nước, con người, độc lập, tự do là điều quý nhất.
Từ những năm bị giam trong ngục tù của Tưởng Giới Thạch, Bác đã viết:
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Cay đắng chi bằng mất tự do.
Và khi với cương vị Chủ tịch nước kêu gọi đồng bào cả nước chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, Bác đã nêu lên chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trong bài thơ chúc tết này, Bác còn chỉ ra đánh cho “Mỹ cút” trước, để “ngụy nhào” sau. Đó là một chiến lược hết sức quan trọng của người lãnh đạo “biết địch, biết ta”. Và thực tế quân, dân ta đã thực hiện đúng điều Bác dạy: Sau những thất bại quá nặng nề, lính Mỹ buộc phải rút về nước. Nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút” của quân và dân ta đã hoàn thành. Và khi đó chuyện “ngụy nhào” là tất yếu, sớm muộn chỉ còn ở thời gian.
Nếu phần kết bài thơ chúc tết xuân Tân Mão 1951, Bác kêu gọi:
Toàn dân hăng hái một lòng
Thi đua chuẩn bị tổng phản công kịp thời.
Thi đua chuẩn bị tổng phản công kịp thời.
Thì đến thơ chúc tết xuân Canh Tý 1960, Bác viết:
Cả nước đồng lòng, hăng hái tiến lên
Thống nhất nước nhà Bắc, Nam vui vẻ!
Thống nhất nước nhà Bắc, Nam vui vẻ!
Nhưng những lời kêu gọi ấy chưa bao giờ thống thiết, thúc giục như hai câu kết trong bài thơ chúc tết cuối cùng của Người:
Tiến lên, chiến sĩ, đồng bào
Bắc – Nam sum họp, xuân nào vui hơn!
Bắc – Nam sum họp, xuân nào vui hơn!
Trong thơ của Người thường sẵn nhạc, trong nhạc như có hiệu kèn xung trận. Nhiều anh bộ đội Cụ Hồ may mắn cùng đơn vị đã được nghe Bác đọc bài thơ này vào giao thừa năm 1969 ở mặt trận và ngay sau đó được nghe bài hát do nhạc sĩ Huy Thục phổ nhạc. Các anh kể rằng nghe thơ chúc tết của Bác, mỗi người lính như có thêm sức mạnh và niềm tin ngày thống nhất, ngày “Bắc Nam sum họp” đã đến gần.
Thơ chúc Tết Xuân Kỷ Dậu 1969 là một trong ba bài thơ chúc tết của Người được viết theo thể lục bát truyền thống. Với bố cục chặt chẽ, vừa tổng kết được tình hình quá khứ, dự báo tương lai, khẳng định lại mục đích chiến đấu vì độc lập, vì tự do và thống nhất đất nước của nhân dân ta, cùng việc vạch ra chiến lược đánh địch… bài thơ sử dụng thể thơ lục bát hết sức nhuần nhuyễn. Theo nhà thơ Vương Trọng, về vần, Bác dụng vần tuyệt đối trong toàn bài: càng vần với vang, cho vần với do, và ba chữ nhào, bào, nào vần với nhau. Về điệu, tất cả các chữ thứ hai trong câu bát đều thanh bằng, các chữ thứ tư trong câu lục bát đều thanh trắc. Riêng câu lục, chỉ có một câu phá cách, chữ thứ hai thanh trắc, chữ thứ tư thanh bằng là câu: “Vì độc lập, vì tự do”, nhưng được Bác ngắt nhịp 3/3 chứ không ngắt nhịp 2/2/2 như thường tình. Điều này chứng tỏ Bác rất tinh thông thể thơ lục bát.
Bốn mươi lăm năm Bác đi xa, những di cảo thơ của Bác là tài sản vô giá đối với thế hệ chúng ta. Mỗi dịp tết đến, xuân về, nhất là tết năm nay, khi bài thơ chúc tết cuối cùng của Bác tròn bốn mươi lăm năm tuổi, chúng ta đọc và cảm nhận từng câu, ngẫm ngợi bao điều sâu thẳm từ những con chữ bình thường giản dị của Người. Ấy chính là cốt cách văn hoá Việt Nam – Hồ Chí Minh.
Bảo Văn