Tổ hợp công nghiệp Khí – Điện – Đạm Cà Mau được Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đầu tư tại Khánh An, Cà Mau, sau khi hoàn thành đưa vào hoạt động đã có những đóng góp quan trọng về an ninh năng lượng, an ninh lương thực, quan hệ quốc tế, là động lực phát triển cho không chỉ Cà Mau mà còn cho tứ giác phát triển Đồng bằng sông Cửu Long và hai hành lang chiến lược kinh tế biển của đất nước.
Với quy mô to lớn và tính chất quan trọng, Cụm dự án Khí – Điện – Đạm Cà Mau ngoài vai trò, ý nghĩa đối với ngành Dầu khí, địa phương, đất nước, còn là môi trường để đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật cả về chuyên môn lẫn phẩm chất để phát triển nguồn nhân lực cao ngay tại vùng cực Nam xa xôi của Tổ quốc. Những kỷ niệm như còn mãi trong ký ức của những người tham gia triển khai đầu tư xây dựng, những cán bộ quản lý cụm dự án quan trọng này. Chúng tôi xin kể lại một vài kỷ niệm nhân dịp hướng tới kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống ngành Dầu khí Việt Nam (27/11/1961 – 27/11/2021).
Lãnh đạo Petrovietnam tham gia tháo gỡ khó khăn trong quá trình triển khai dự án. |
Thứ nhất, lựa chọn mô hình triển khai cụm dự án. Có thể nói, Cụm dự án Khí – Điện – Đạm Cà Mau là một tổ hợp các công trình công nghiệp mang tính liên hợp hiện đại đầu tiên, có quy mô rất lớn vào thời điểm đó. Vì thế, lựa chọn mô hình đầu tư là bài toán cần có lời giải hợp lý khi chúng ta chưa có mô hình tương tự trước đó để tham chiếu và học hỏi kinh nghiệm. May mắn lúc đó đội ngũ các cán bộ tham gia đều rất tâm huyết, đã từng có kinh nghiệm và theo tôi thì họ là những người giỏi, lại rất đoàn kết. Tôi vốn công tác từ biển nên khi “cập bờ”, tiếp cận và làm việc tại dự án, bước đầu rất bỡ ngỡ nhưng đã được các anh em hỗ trợ, chỉ bảo tận tình.
Tôi nhớ mãi các anh những ngày đầu gian khó như anh Trần Văn Thục, anh Lê Tự Hiểu, anh Trần Thanh Hải, anh Nguyễn Tiến Dũng, sau này có các anh Phạm Văn Định, anh Hoàng Xuân Quốc, anh Lê Anh Thông, rồi anh Trịnh Thanh Bình, anh Lê Mạnh Hùng, anh Văn Tiến Thanh,… Họ có đặc điểm là người làm kỹ thuật nhưng đều am hiểu về kinh tế và ngược lại, nhất là kiến thức về pháp lý, hầu hết đều giỏi tiếng Anh. Điều này đã giúp ích rất lớn khi có thể nhanh chóng thống nhất một vấn đề phát sinh nào đó cần trao đổi để thực thi công việc. Sau này, anh Lê Mạnh Hùng, Trưởng ban Quản lý dự án nay là Tổng Giám đốc Tập đoàn đã ví rằng đội ngũ tham gia dự án như cuộc chạy tiếp sức, cùng nhau vượt gian khó để về đích.
Ban Chuẩn bị đầu tư lúc đó (sau này là Ban Quản lý Dự án Khí – Điện – Đạm Cà Mau) sau khi so sánh, phân tích đã báo cáo với Tập đoàn (lúc đó là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam) về mặt thuận lợi, mặt khó khăn giữa các mô hình. Trong quá trình đề xuất, phải vượt qua nhiều khó khăn, ví dụ, từng có câu hỏi tại sao một dự án lại tách ra các dự án độc lập, có phải để “né” thẩm quyền phê duyệt? Rồi khi tách ra các dự án độc lập, tại sao lại nhập chung vào một Ban Quản lý dự án, có phải để “ôm” cho một chủ đầu tư, một siêu ban? Cuối cùng thống nhất đề xuất để Tập đoàn quyết định mô hình một Ban Quản lý dự án thực hiện các dự án độc lập trong cụm dự án để vừa dễ dàng điều phối, quản lý giao diện, xử lý các phát sinh, vừa tiết giảm chi phí, nguồn lực trong quá trình thực hiện, nhất là tiết kiệm được thời gian của các thủ tục trong lúc tiến độ của từng dự án là khác nhau.
Quả thực, sau này triển khai chúng tôi mới thấy các thuận lợi do mô hình mang lại. Đơn giản như việc thống nhất các thông số đầu vào để thiết kế, các giao diện,… nếu là các pháp nhân riêng biệt, chắc chắn mỗi bên sẽ có những quan điểm riêng, dễ dẫn đến các vướng mắc cần thời gian và cấp thẩm quyền để xử lý. Trong lúc ấy, chúng tôi chỉ “ới” nhau để cùng trao đổi nội bộ là đã có thể tìm chung giải pháp.
Công trường Nhà máy Đạm Cà Mau. |
Thứ hai, tính đồng bộ trong triển khai các công trình, dự án cụ thể. Như đã nói, cụm dự án bao gồm các dự án chuyên ngành. Mỗi dự án có đặc thù riêng nhưng lại là tổ hợp cần sự kết nối, tương liên chặt chẽ để đảm bảo an toàn, khả thi, hiệu quả cho từng dự án và cho cả cụm công trình. Các dự án bao gồm từ khâu thượng nguồn ngoài khơi, trung chuyển qua tuyến đường ống dẫn khí cả trên biển và trên đất liền và các công trình hạ nguồn. Vì vậy, cần thiết phải được triển khai đầu tư xây dựng thành công, mang đến hiệu quả cao, kịp thời từ việc khai thác khí tại Bungaraya, qua hệ thống vận chuyển bằng tuyến đường ống dẫn khí PM3 – Cà Mau.
Đến nay, qua nhiều dự án, chúng ta có thể thấy sự phối hợp nhịp nhàng để đảm bảo tính đồng bộ của các công trình trong chuỗi kết nối là cực kỳ quan trọng. Nhiều dự án năng lượng trong nước và quốc tế thời gian dài vừa qua không thể triển khai là do yếu tố này. Chúng tôi vẫn nói nôm na là được biển thì khó bờ, được bờ thì khó biển chính là điều này. Tại cụm dự án Khí Điện Đạm Cà Mau do các dự án thành phần trong chuỗi công trình đều được triển khai khá đồng bộ nên đã xử lý được các điểm nghẽn về giao diện kỹ thuật, giao diện quản lý, giao diện về kinh tế nên đã góp phần quan trọng đưa các dự án hoàn thành và khai thác hiệu quả cho đến nay.
Thứ ba, cơ chế và các chính sách áp dụng. Đối với tất cả các dự án đầu tư nói chung, hành lang pháp lý bao gồm hệ thống các quy định chung và các quyết định cụ thể có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp và căn bản đến các bước, từ chủ trương, triển khai đầu tư xây dựng đến hiệu quả khi vận hành, sản xuất. Có thể nói trong triển khai dự án, có rất nhiều khó khăn, nhưng khó khăn chính, quan trọng nhất vẫn là hệ thống cơ sở pháp lý. Đội ngũ cán bộ tham gia quan lý, điều hành rất trăn trở khi nghiên cứu các giải pháp để đề xuất nhằm tháo gỡ khó khăn. Bởi lẽ, bất cứ giải pháp nào cũng có nhiều mặt, ví dụ được tiến độ thì ảnh hưởng đến chi phí, được chi phí thì vướng về quy định. Vòng xoay giữa tiến độ, chất lượng, chi phí và cơ chế chính sách cứ như nghịch lý, mâu thuẫn và va đập vào nhau, mà việc đánh giá xem xét nhiều khi tùy thuộc vào quan điểm, thời điểm và bối cảnh.
Rất may mắn, trong thời gian triển khai cụm dự án, chúng tôi có sự vào cuộc kịp thời của các cấp thẩm quyền. Đặc biệt là Quyết định số 1071/QĐ-TTg ngày 26/9/2003 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước các dự án trọng điểm về dầu khí, Quyết định số 119/2004/QĐ-TTg ngày 30/6/2004 về cơ chế điều hành quản lý đầu tư xây dựng các dự án trọng điểm về dầu khí, Quyết định số 1195/QĐ-TTg ngày 9/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù để đầu tư xây dựng các công trình điện cấp bách giai đoạn 2006-2010.
Trong lúc các quy định về đầu tư xây dựng luôn có những bất cập, thậm chí chồng chéo, mâu thuẫn nhau, việc có Ban Chỉ đạo đã giải phóng được rất nhiều nút thắt, tạo cơ sở để đội ngũ cán bộ tham gia dự án yên tâm đề xuất, tham mưu và ra quyết định. Có thể nói việc này đã góp phần tháo gỡ các khó khăn lớn, các điểm nghẽn, tạo sự thống nhất giữa quan điểm và triển khai, giữa quy định và thực tiễn, nói rộng ra chính là giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Còn Quyết định số 1195/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã mang lại hiệu quả nhanh chóng từ việc rút ngắn tối đa việc nghiên cứu, đề xuất, quyết định đầu tư và các bước triển khai Dự án Nhà máy Nhiệt điện Cà Mau 2.
Thi công đường ống dẫn khí đoạn tiếp bờ vào Cụm Khí – Điện – Đạm Cà Mau. |
Thứ tư, hiệu quả của hợp tác quốc tế tại vùng tranh chấp. Cụm dự án không thể ra đời và phát huy hiệu quả nếu không có đầu vào, chính là nguồn khí. Chúng ta biết rằng, vùng ngoài khơi tiếp giáp giữa hai quốc gia Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng biển chồng lấn khoảng 2.800 km2. Khu vực này nằm ở vịnh Thái Lan có độ sâu trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương đối bằng phẳng. Vào năm 1992, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt bấy giờ, trong chuyến thăm Malaysia đã cùng Thủ tướng Malaysia thông qua một thoả thuận để cùng nhau tiến hành các bước đàm phán phân định thềm lục địa giữa hai nước. Trên cơ sở đó hai bên đã thống nhất được nhiều điểm để đi đến thỏa thuận áp dụng mô hình khai thác chung cho vùng xác định, làm cơ sở cho sự hợp tác phát triển chung về nguồn tài nguyên biển.
Thỏa thuận khai thác thương mại giữa Việt Nam và Malaysia tại vùng biển PM3 là nền tảng để có được dòng khí ngoài khơi tại vùng chồng lấn cung cấp cho cụm dự án, là yếu tố tiên quyết cho việc đầu tư. Các nội dung của thỏa thuận vùng thương mại (CAA), thỏa thuận cung cấp khí thượng nguồn (UGSA) đã mang lại những động lực và ý nghĩa to lớn không chỉ về kinh tế, mà còn cả ngoại giao năng lượng, xử lý các nguy cơ bất ổn, duy trì hòa bình và gia tăng hợp tác quốc tế tại vùng biển đang tồn tại các quan điểm khác nhau giữa các quốc gia trong khu vực. Vì thế, có người đã vừa mừng vừa rưng rưng khi tiếp cận những tài liệu này trong quá trình nghiên cứu, triển khai. Đặc biệt trong dịp cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt về thăm và trò chuyện tại dự án mà khi có điều kiện chúng tôi sẽ đề cập bằng một bài viết riêng.
Thứ năm, nắm bắt thực tiễn, dám nghĩ, dám làm, dám đề xuất, dám quyết định. Về mặt này, có hai quyết định quan trọng đã làm đòn bẩy tăng tính khả thi, tiết giảm đáng kể chi phí đầu tư và đặc biệt là đã rút ngắn tiến độ, nắm bắt thời cơ cho các dự án. Nếu đặt trong tổng thể các đánh giá bao gồm cả việc cân đối và sử dụng nguồn khí từ mỏ PM3 thuộc vùng chồng lấn mới càng thấy tầm mức ý nghĩa và hiệu quả. Cụ thể, ban đầu cụm dự án được thiết kế để tuyến đường ống dẫn khí sau khi tiếp bờ sẽ đi theo sông Ông Đốc về đến cụm dự án tại U Minh, Khánh An, tỉnh Cà Mau. Tuy nhiên, khi triển khai, anh Trần Văn Thục lúc đó là Trưởng ban Chuẩn bị đầu tư đã chỉ đạo khảo sát lại, sau đó đã xem xét và đề xuất tối ưu, thay đổi tuyến như hiện nay để tiếp bờ tại Mũi Tràm và chạy thẳng đến cụm dự án.
Còn nhớ, đề xuất này đã phải vượt qua nhiều khó khăn, thậm chí có ý kiến tại sao tuyến ống dẫn khí PM3 – Cà Mau mới phê duyệt “chưa ráo mực” theo tuyến sông Ông Đốc đã lại điều chỉnh sang tuyến mới? Mặc dù vậy, sau khi khảo sát, đánh giá lại thực địa, đặc biệt có xét đến đặc điểm, hiện trạng địa hình và ngành nghề của nhân dân địa phương dọc tuyến sông đang hiện hữu về thủy nghiệp, giao thông thủy, cũng như tổng chiều dài tuyến, kể cả khả năng bảo đảm an toàn đối với giải pháp thi công và vận hành sau khi hoàn thành,… Ban Quản lý dự án đã chính thức đề xuất đổi tuyến. Tập đoàn đã báo cáo, giải trình các cấp thẩm quyền và đề xuất đã được chấp thuận. Riêng chiều dài tuyến đã tiết giảm chiều dài tuyến, số lượng trạm van ngắt tuyến, đặc biệt là chi phí biện pháp thi công và giảm thiểu tác động đến môi sinh, tiết kiệm nhiều triệu USD.
Thi công Cảng Nhà máy Đạm Cà Mau. |
Trong quá trình triển khai, khi có Quyết định số 1195/QĐ-TTg ngày 9/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù để đầu tư xây dựng các công trình điện cấp bách giai đoạn 2006-2010, Ban Quản lý dự án nhận thấy cơ hội để đầu tư nhanh nhà máy điện thứ hai trong lúc nhu cầu về điện năng vẫn đang thiếu hụt nghiêm trọng nên đã đánh giá khả năng cung cấp khí và đề xuất đầu tư thêm Nhà máy điện Cà Mau 2 theo cơ chế nhân đôi Dự án Nhà máy nhiệt điện Cà Mau 1. Tôi còn nhớ giữa trưa hôm đó, tại phòng làm việc của anh Phạm Văn Định lúc đó là Phó Tổng giám đốc Tập đoàn kiêm Trưởng ban, anh Lê Anh Thông lúc đó là Phó Trưởng ban phụ trách dự án điện của cụm dự án đã trực tiếp cùng tôi và anh Trịnh Xuân Huy vừa nghiên cứu các nội dung của Quyết định số 1195/QĐ-TTg vừa soạn thảo tờ trình đề xuất và đã được chấp thuận, tạo nên bước đột phá trong đầu tư và biến khả năng thành hiện thực trong việc vận dụng, triển khai chủ trương của Đảng, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thật hạnh phúc vì các chủ trương, giải pháp nói trên đến nay sau khi được chấp thuận để triển khai đều đã chứng minh tính hiệu quả bền vững cả trong đầu tư xây dựng và vận hành, khai thác mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cho ngành, địa phương và đất nước. Đồng thời, việc hoàn thành đầu tư, vận hành an toàn và khai thác hiệu quả các dự án đã thực sự đóng góp cho địa phương về tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; thu hút, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển các dịch vụ hỗ trợ, thương mại, du lịch. Cụm dự án đã góp phần làm tươi đẹp thêm diện mạo của tỉnh Cà Mau đang ngày càng rạng rỡ trong ánh sáng đổi mới, chung niềm vui với sự phát triển của đất nước. Kỷ niệm rất nhiều và mãi là hành trang, là niềm tin cho những người lao động dầu khí vượt qua khó khăn, hướng đến những thành công ở các dự án tiếp theo.
Đến nay, kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị tại cụm dự án đã cho thấy sự hiệu quả qua những con số cụ thể. Tính đến nay, cả cụm dự án đã đạt tổng doanh thu là 245 ngàn tỷ đồng; đóng góp cho ngân sách 16,5 ngàn tỷ đồng. Ngoài các đóng góp về đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực, cụm dự án còn là một mỏ neo để giữ ổn định và duy trì tốc lực phát triển cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam qua những biến động và rủi ro về suy giảm giá dầu, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trên toàn thế giới.
TS. Nguyễn Thành Hưởng